Đánh dấu sự kiện quan trọng này của nền giáo dục đại học Việt Nam, phóng viên Dân trí đã có cuộc trao đổi với bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học – Bộ GD-ĐT, thành viên Ban soạn thảo về những điểm mới của Luật đã "cởi trói" cho các trường đại học như thế nào?
Tạo không gian thống nhất trong toàn hệ thống GDĐH Việt Nam
Phóng viên: Luật giáo dục GD đại học sửa đổi (Luật số 34) có hiệu lực chính thức từ hôm nay ngày 1/7/2019, theo đó các trường đại học chính thức được “cởi trói”. Vậy, những điểm mới quan trọng nhất của Luật mới này so với Luật cũ là gì thưa bà?
Bà Nguyễn Thị Kim Phụng: Luật đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy thực hiện tự chủ đại học, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm sự hội nhập quốc tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể:
Luật đã quy định rõ hệ thống cơ sở giáo dục đại học gồm đại học và trường đại học, tiệm cận với thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam, khắc phục một số vấn đề bất cập nhưng vẫn đảm bảo ổn định hệ thống để phát triển.
Luật cũng làm rõ vấn đề sở hữu; tạo sự bình đẳng giữa cơ sở GDĐH công lập và tư thục và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở GDĐH tư thục.
Mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả của tự chủ đại học trong toàn hệ thống; trong đó, quyền tự chủ gắn với trách nhiệm giải trình của cơ sở GDĐH trong việc xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu.
Các trường tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học.
Chủ trương tăng cường tự chủ cho các cơ sở GDĐH nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát hợp lý chất lượng đào tạo, chú trọng quản lý đối với các ngành liên quan đến sức khỏe, đào tạo giáo viên, an ninh, quốc phòng.
Đặc biệt, Hội đồng trường có thực quyền trong việc quyết định về tổ chức bộ máy; quyết định nhân sự, tiêu chuẩn hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tiêu chuẩn giảng viên theo quy định của pháp luật.
Hội đồng trường thực hiện chức năng quản trị trường, quyết định định hướng phát triển trường, ban hành quy chế tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính…
Hiệu trưởng thực hiện chức năng quản lý, điều hành hoạt động của trường theo quy định của pháp luật và theo quyết nghị của hội đồng trường phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đổi mới cơ chế quản lý tài chính, tài sản đảm bảo thông thoáng và hiệu quả, phù hợp với từng loại hình cơ sở GDĐH để tạo điều kiện cho các cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ.
Cơ sở GDĐH có quyền tự chủ xây dựng và quyết định mức học phí, đảm bảo tương xứng với chất lượng đào tạo và công bố công khai khi tuyển sinh.
Nhà nước phân bổ ngân sách và nguồn lực cho giáo dục đại học theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, hiệu quả thông qua chi đầu tư, chi nghiên cứu phát triển, đặt hàng nghiên cứu và đào tạo, học bổng, tín dụng sinh viên và hình thức khác.
Bên cạnh đó, ưu tiên đầu tư phát triển một số cơ sở giáo dục đại học, ngành đào tạo mang tầm khu vực, quốc tế và cơ sở đào tạo giáo viên chất lượng cao.
Đổi mới quản lý đào tạo để đảm bảo chất lượng, hiệu quả và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế thông qua việc xây dựng một số khái niệm tương đồng với quốc tế; xây dựng các chuẩn GDĐH như chuẩn chương trình, chuẩn giảng viên, chuẩn cơ sở GDĐH…
Tạo không gian thống nhất trong toàn hệ thống GDĐH Việt Nam, phù hợp với xu hướng quốc tế, đảm bảo chất lượng đào tạo, thúc đẩy việc công nhận văn bằng, tín chỉ giữa các trường trong khu vực và trên thế giới.
Căn cứ vào kết quả kiểm định, năng lực của trường và nhu cầu xã hội, các trường có quyền tự chủ mở ngành, tuyển sinh, tổ chức đào tạo và cấp bằng...
Hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục được quy định với trách nhiệm cụ thể của các bên liên quan; quy định về cơ sở kiểm định độc lập và công khai kết quả kiểm định, tỷ lệ việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp để người học và xã hội lựa chọn.
Đổi mới quản lý Nhà nước trong điều kiện tự chủ đại học thông qua các công cụ quản lý như quy hoạch mạng lưới, ban hành chính sách, chiến lược, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học; ban hành hệ thống chuẩn chất lượng, điều kiện đảm bảo chất lượng…để các trường tự chủ thực hiện.
Cơ sở GDĐH có trách nhiệm minh bạch thông tin và thực hiện trách nhiệm giải trình theo quy định. Cơ quan quản lý nhà nước quản lý theo pháp luật, quy chuẩn chất lượng; đồng thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong GDĐH theo quy định của pháp luật…
Giảm sự can thiệp trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước
Hội đồng trường là vấn đề mà nhiều người quan tâm, vậy trong Luật này bỏ cơ quan chủ quản thì mối quan hệ giữa trường đại học với nhà nước sẽ ra sao?, Việc phân công, phân cấp, phân quyền giữa bộ GD&ĐT với các bộ ngành liên quan khác, với địa phương và CSGD như thế nào thưa bà?
Trong Luật GDĐH 2012 hầu như không quy định về “cơ quan chủ quản” ngoài 1 quy định về “đại diện cơ quan chủ quản cơ sở giáo dục đại học” là thành viên đương nhiên của hội đồng trường (Điều 16) nên Luật số 34 cũng hầu như không quy định về “bỏ cơ quan chủ quản”.
Tuy nhiên, với chủ trương mở rộng phạm vi và nâng cao hiệu quả của tự chủ ĐH thì Luật số 34 giảm sự can thiệp trực tiếp của cơ quan nhà nước (NN) đến tổ chức và hoạt động của cơ sở GDĐH.
Điều đó có nghĩa là sẽ thay đổi phương thức quản lý NN từ chỗ nhiều nội dung quản lý còn sử dụng phương thức hành chính trực tiếp, nay chuyển sang phương thức quản lý thông qua pháp luật, với hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng… để các trường được phát huy tính năng động, sáng tạo của mình cạnh tranh và phát triển.
Thực tế, cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) trong bất cứ mô hình quản lý nào cũng đều phải chịu quản lý của các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước về GDĐH.
Trong Luật, mối quan hệ giữa cơ sở GDĐH với NN được thể hiện thông qua các quy định: Cơ quan quản lý NN ban hành các chính sách, pháp luật về GDĐH để thực hiện thống nhất trong toàn quốc; xây dựng cơ chế huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển GDĐH, quy hoạch mạng lưới GDĐH, ban hành các chuẩn chất lượng GDĐH, tổ chức kiểm định chất lượng GDĐH, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về GDĐH; thanh tra, kiểm tra, và xử lý vi phạm pháp luật về GDĐH; cử người tham gia hội đồng trường để thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu, công nhận hội đồng trường, chủ tịch hội đồng trường, hiệu trưởng…
Trong đó, Luật quy định rõ: Bộ GD-ĐT là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về GDĐH; Bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm nghiên cứu, dự báo nhu cầu nhân lực của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý, làm căn cứ để xây dựng kế hoạch đào tạo, phối hợp với Bộ GDĐT thực hiện quản lý nhà nước về GDĐH trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về GDĐH trên địa bàn, kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ sở GDĐH tại địa phương...
Nếu vậy có thể coi Hội đồng trường (HĐT) là cơ quan quyền lực, thay mặt nhà nước để quản trị trực tiếp trường đại học nhưng làm thế nào để biết HĐT có đủ năng lực?
Luật số 34 đã quy định rõ hội đồng trường là tổ chức quản trị, thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu là nhà nước (đối với trường công) hoặc nhà đầu tư (đối với trường tư) và các bên có lợi ích liên quan.
Có thể nói hội đồng trường theo đúng tiêu chuẩn, thành phần như Luật quy định, thực hiện được chức năng, nhiệm vụ được giao là HĐT đủ năng lực. Quy định của Luật được xem như quy định khung, với các tiêu chuẩn tối thiểu để các trường thiết lập được HĐT có đủ năng lực quản trị cơ sở GDĐH.
Để biết được HĐT có năng lực đến đâu thì cần xem xét vị thế, uy tín, kinh nghiệm làm việc… của các thành viên và chủ tịch HĐT, các thiết chế giúp việc của HĐT.
Đặc biệt là sự tác động của HĐT đến các hoạt động và sự phát triển của nhà trường thông qua việc: xác định mục tiêu chiến lược và cách thức thực hiện mục tiêu, thu hút nhân tài, lựa chọn hiệu trưởng.
Đồng thời, huy động nguồn lực phát triển trường, xây dựng và ban hành được quy chế tổ chức và hoạt động của trường cũng như các quy định nội bộ liên quan để vận hành bộ máy, thực hiện mục tiêu chiến lược, đảm bảo sự cân bằng, hài hòa giữa quyền, trách nhiệm và lợi ích của các bên liên quan trong và ngoài nhà trường… để đoàn kết, cạnh tranh và phát triển.
Hiệu trưởng không đơn giản là “người làm thuê”
Hiệu trưởng do Hội đồng trường quyết định và được cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận. Như vậy, Hiệu trưởng là người làm thuê do Hội đồng trường chọn và có thể bãi nhiệm hiệu trưởng có thể bất cứ lúc nào?
Đối với các trường công lập, Hiệu trưởng do HĐT quyết định và được cơ quan quản lý có thẩm quyền công nhận.
Mặc dù Hiệu trưởng do HĐT quyết định nhưng cũng cần đặt trong quy trình bổ nhiệm cán bộ của các đơn vị sự nghiệp công lập; cần lựa chọn người có tâm, tầm, tài để cùng HĐT xác định mục tiêu chiến lược phát triển trường, có khả năng tổ chức thực hiện các quyết nghị của HĐT… chứ không phải đơn giản chỉ là “người làm thuê".
Việc bãi nhiệm hiệu trưởng của bất cứ HĐT nào, công hay tư cũng đều phải có căn cứ, theo thủ tục Luật định và quy chế tổ chức và hoạt động của từng trường.
Bí thư Đảng uỷ kiêm Chủ tịch Hội đồng trường
Một trong những “điểm nghẽn” trong thời gian qua được các trường đại học và dư luận xã hội quan tâm nhiều là vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và mối quan hệ giữa 3 thiết chế lãnh đạo, quản trị, quản lý trường đại học là Đảng ủy (ĐU), Hội đồng trường (HĐT) và Ban Giám hiệu (BGH). Trong Luật mới và trong Nghị định hướng dẫn giải quyết cụ thể vấn đề này như thế nào thưa bà?
Luật GDĐH đã quy định:
Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong cơ sở GDĐH được thành lập và hoạt động theo quy định của Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; trong đó, Đảng lãnh đạo bằng đường lối và nghị quyết để các cá nhân, đơn vị trong cơ sở GDĐH triển khai thực hiện.
Hội đồng trường của trường đại học công lập là tổ chức quản trị, thực hiện quyền đại diện của chủ sở hữu và các bên có lợi ích liên quan; có trách nhiệm và quyền hạn trong việc:
Quyết định về mục tiêu chiến lược, kế hoạch phát triển trường; ban hành quy chế tổ chức, hoạt động, quy chế tài chính, quy chế dân chủ cơ sở; quyết định về cơ cấu tổ chức, nhân sự chủ chốt, chính sách huy động nguồn lực, chủ trương đầu tư và sử dụng tài sản có giá trị lớn thuộc thẩm quyền của trường đại học…
Các quyết định của HĐT phải phù hợp với pháp luật, nghị quyết của đảng và quy chế, quy định của nhà trường.
Đối với hai thiết chế trên, Nghị quyết 19 của Đảng đã chủ trương Bí thư Đảng uỷ kiêm chủ tịch HĐT để thống nhất cơ chế lãnh đạo và quản trị trong trường ĐH công lập.
Nội dung này sẽ được Tổ chức Đảng hướng dẫn thực hiện, phù hợp với quy định của Luật GDĐH.
Hiệu trưởng trường ĐH công lập do HĐT lựa chọn, làm việc trong nhiệm kỳ của HĐT, có quyền đại diện theo pháp luật và là chủ tài khoản; chịu trách nhiệm quản lý, điều hành, tổ chức các hoạt động của cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường, thực hiện quyết nghị của HĐT.
Đồng thời, có trách nhiệm lựa chọn Phó hiệu trưởng trình HĐT bổ nhiệm và phân công, điều hành để ban giám hiệu hoạt động hiệu quả, báo cáo trước HĐT về kết quả thực hiện nhiệm vụ của hiệu trưởng và ban giám hiệu, tài chính, tài sản của cơ sở GDĐH…
Như vậy, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, và mối quan hệ giữa 3 thiết chế lãnh đạo, quản trị, quản lý trường đại học đã được Luật quy định khá rõ.
Đồng thời, Luật cũng quy định các trường phải cụ thể hoá về tổ chức và hoạt động, mối quan hệ của các thiết chế này trong quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường.
Ví dụ như về công tác cán bộ, Luật quy định: Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học công lập phải quy định về thủ tục HĐT quyết định nhân sự hiệu trưởng, việc quyết định chức danh quản lý khác của trường đại học trong quy trình bổ nhiệm nhân sự (Điều 16).
Như vậy, thủ tục HĐT quyết định nhân sự hiệu trưởng phải đặt trong quy trình bổ nhiệm nhân sự nói chung.
Xin trân trọng cám ơn bà!
Cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận, theo Luật số 34, cơ sở GDĐH tư thục và cơ sở GDĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận đều do nhà đầu tư trong nước hoặc nước ngoài đầu tư, bảo đảm điều kiện hoạt động.
Trong đó, Cơ sở GDĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận là cơ sở GDĐH mà nhà đầu tư cam kết hoạt động không vì lợi nhuận, được ghi nhận trong quyết định cho phép thành lập hoặc quyết định chuyển đổi loại hình cơ sở GDĐH.
Hoạt động không vì lợi nhuận, không rút vốn, không hưởng lợi tức; phần lợi nhuận tích lũy hằng năm thuộc sở hữu chung hợp nhất không phân chia để tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở GDĐH.
Theo Hồng Hạnh báo Dân trí.