THS. NGUYỄN TÂN THỊNH
Với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2016/NĐ-CP ngày 06/01/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 52/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, những “nút thắt” trong quản lý, sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập đã được gỡ bỏ, hướng tới mục tiêu đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả khai thác nguồn lực từ tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập.
Nguồn lực tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp công lập
Để các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công cho xã hội theo nhiệm vụ được giao, Nhà nước đã thực hiện trang bị tài sản, cơ sở vật chất cho các đơn vị thông qua nhiều hình thức khác nhau: giao tài sản bằng hiện vật, giao quyền sử dụng đất; giao ngân sách cho đơn vị để thực hiện đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản; cho phép đơn vị được sử dụng các nguồn thu được để lại và các nguồn vốn hợp pháp khác để đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản. Tài sản, cơ sở vật chất này là điều kiện cần thiết để các đơn vị sự nghiệp công thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao, song đây cũng là một nguồn lực tài chính quan trọng có thể khai thác để phát triển thêm các hoạt động dịch vụ sự nghiệp công phục vụ xã hội.
Theo Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước (TSNN), tính đến ngày 31/12/2015, 4 loại TSNN có giá trị lớn gồm: đất, nhà, ô tô, tài sản khác có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên/1 đơn vị tài sản có tổng nguyên giá là: 1.031.313,82 tỷ đồng (chưa bao gồm tài sản tại các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân). Trong đó, các đơn vị sự nghiệp công lập hiện đang quản lý 311.606 tài sản (chiếm 64,36% tổng số lượng TSNN), với tổng nguyên giá là: 709.869,59 tỷ đồng (chiếm 68,83% tổng giá trị TSNN). Phân theo loại tài sản, các đơn vị sự nghiệp công lập đang quản lý, sử dụng 76.120 khuôn viên đất với tổng giá trị là 485.794,06 tỷ đồng; 199.451 ngôi nhà với tổng nguyên giá là 173.895,13 tỷ đồng; 16.032 xe ô tô công với tổng nguyên giá là 9.360,59 tỷ đồng và 20.003 tài sản khác có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên với tổng nguyên giá là 40.891,80 tỷ đồng.
Những “nút thắt” trong quản lý, sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng TSNN năm 2008, đơn vị sự nghiệp công lập được chia làm hai nhóm: (i) đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và (ii) đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính. Tương ứng với hai nhóm đơn vị sự nghiệp công lập là hai cơ chế quản lý, sử dụng TSNN khác nhau. Nếu như đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính thực hiện quản lý, sử dụng TSNN như cơ quan nhà nước, trừ khoản thu được từ thanh lý, nhượng bán tài sản (ngoài quyền sử dụng đất) được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, sau khi trừ đi các chi phí có liên quan, thì các đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính được Nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp. Ngoài các quyền, nghĩa vụ như cơ quan nhà nước, đơn vị được phép sử dụng TSNN giao vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết (gọi tắt là mục đích kinh doanh). Đơn vị thực hiện việc trích khấu hao tài sản cố định (toàn bộ hoặc phần tài sản cố định sử dụng vào mục đích kinh doanh) để hình thành quỹ khấu hao dùng cho việc tái tạo lại tài sản, thay vì NSNN phải cấp lại. Khi Nhà nước thực hiện các quyền điều chuyển, thu hồi phải bảo đảm cho đơn vị bảo toàn, phát triển vốn và tài sản được giao.
Thực hiện quy định của Luật Quản lý và sử dụng TSNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý, sử dụng TSNN; trong đó, dành toàn bộ Chương III quy định cụ thể chế độ quản lý, sử dụng TSNN tại đơn vị sự nghiệp công lập. Tiếp đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 12/2012/TT-BTC ngày 06/02/2012 quy định tiêu chí xác định đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính.
Quá trình triển khai thực hiện đã đạt được những kết quả quan trọng, nhiều đơn vị sau khi được giao vốn đã phát huy tốt tiềm năng, thế mạnh để vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, vừa nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng thu nhập cho người lao động, tăng khả năng tự chủ về mặt tài chính và đóng góp một phần vào NSNN.
Tuy vậy, đến hết năm 2015, mới có 723 đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước xác định giá trị TSNN để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp với tổng giá trị tài sản đã giao trên 21.000 tỷ đồng (chiếm 2,2% tổng giá trị TSNN tại đơn vị sự nghiệp công lập đang theo dõi trên cơ sở dữ liệu). Nhiều đơn vị sự nghiệp đủ điều kiện nhưng không làm thủ tục để được giao tài sản theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp hoặc không đủ điều kiện nhưng vẫn sử dụng TSNN vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc cho thuê, liên doanh, liên kết. Qua tổng kết, đánh giá, Bộ Tài chính thấy rằng, có những “nút thắt” đang cản trở quá trình giao tài sản cho đơn vị sự nghiệp công lập theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp. Cụ thể:
Một là, một số tiêu chí xác định đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện để được Nhà nước xác định giá trị tài sản giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp còn chưa phù hợp với thực tế, tạo tâm lý e ngại cho các đơn vị hoặc cản trở những đơn vị có khả năng xã hội hóa được sử dụng tài sản để tạo nguồn lực phát triển…
Hai là, việc xác định giá trị tài sản để giao tài sản, đặc biệt là giá trị quyền sử dụng đất còn phức tạp do phải xác định giá đất cụ thể theo giá trị trường. Việc xác định giá trị theo giá thị trường là cần thiết khi sử dụng tài sản vào mục đích kinh doanh và trong trường hợp giá dịch vụ sự nghiệp công lập được phép tính đủ chi phí và toàn bộ tài sản được trích khấu hao để tạo nguồn tái tạo tài sản mới. Tuy nhiên, trong điều kiện thực tiễn thời gian vừa qua và sắp tới thì việc tính đủ chi phí phải có lộ trình thích hợp (Chính phủ đã quy định lộ trình này tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP). Vì vậy, ngay khi giao vốn đã phải xác định theo giá thị trường bằng các phương pháp so sánh, chiết trừ, thu nhập, thặng dư không còn cần thiết, tốn kém chi phí, thời gian.
Ba là, thời hạn thực hiện các bước trong quá trình xác định giá trị tài sản và giao tài sản chưa được quy định cụ thể hoặc đã được quy định nhưng chưa phù hợp, vì vậy, quá trình thực hiện còn bị kéo dài, không có cơ sở xử lý trách nhiệm trong tổ chức thực hiện.
Bốn là, một số chính sách có liên quan mới được ban hành đòi hỏi cơ chế quản lý, sử dụng TSNN tại đơn vị sự nghiệp công lập phải được điều chỉnh để tạo sự đồng bộ, phát triển dịch vụ sự nghiệp công và nâng cao tính tự chủ cho đơn vị sự nghiệp công lập...
Năm là, việc xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị sự nghiệp quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp là một chủ trương mới, các đơn vị còn có tâm lý e ngại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước; một số đơn vị chưa thấy được tác dụng quan trọng của việc sử dụng hiệu quả TSNN giao cho đơn vị nên chưa tích cực triển khai. Trong khi đó, công tác chỉ đạo, hướng dẫn của một số bộ, cơ quan trung ương và các địa phương chưa quyết liệt, đồng bộ.
Nâng cao hiệu quả khai thác nguồn lực từ tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2016/NĐ-CP ngày 06/01/2016, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 23/2016/TT-BTC ngày 16/02/2016 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 04/2016/NĐ-CP, những “nút thắt” trong quản lý, sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập nêu trên đã được gỡ bỏ hướng tới mục tiêu đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả khai thác nguồn lực từ tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập.
Một là, đơn giản hóa tiêu chí, mở rộng phạm vi đối tượng đơn vị sự nghiệp đủ điều kiện xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp. Theo đó, tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên đều đủ điều kiện được Nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp mà không cần thêm các điều kiện các như quy định trước đây. Việc xác định loại hình đơn vị sự nghiệp công căn cứ quy định của pháp luật hiện hành về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp và phương án tự chủ được cấp có thẩm quyền phê duyệt áp dụng tại thời điểm có văn bản xác nhận đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện được Nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, trường hợp tài sản của đơn vị sự nghiệp do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên có khả năng sử dụng vào mục đích cho thuê, liên doanh, liên kết, đơn vị này cũng có thể được cơ quan có thẩm quyền xác định giá trị TSNN để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp.
Để sớm xác định các đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện được Nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp (gọi là đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính), Nghị định số 04/2016/NĐ-CP cũng yêu cầu chậm nhất đến ngày 20/5/2016, các bộ, cơ quan trung ương, UBND cấp tỉnh phải hoàn thành việc rà soát toàn bộ các đơn vị sự nghiệp công lập hiện có thuộc phạm vi quản lý để xác định đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ tài chính. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện được Nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp, bộ, cơ quan trung ương, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm ban hành Thông báo danh mục để đơn vị triển khai các công việc tiếp theo trong quy trình xác định giá trị tài sản và giao cho đơn vị quản lý.
Hai là, đơn giản hóa việc xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp. Quy định trước đây khi xác định giá trị tài sản để giao vốn là quyền sử dụng đất, giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá đất do UBND cấp tỉnh quy định. Trường hợp giá đất do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm tính giá đất vào giá trị tài sản đơn vị chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì phải xác định lại cho phù hợp. Đối với các tài sản khác, thủ trưởng đơn vị phải thành lập hội đồng để xác định giá trị còn lại của tài sản hoặc thuê tổ chức có đủ điều kiện thẩm định giá để làm căn cứ xác định giá trị còn lại của tài sản. Theo quy định này thì hầu hết các đơn vị đều phải thuê tổ chức tư vấn để xác định giá trị của tài sản; riêng đối với giá trị quyền sử dụng đất phải gửi Sở Tài chính, nơi có nhà, đất chủ trì thẩm định, trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định. Hiện nay, theo Nghị định số 04/2016/NĐ-CP thì giá trị quyền sử dụng đất được xác định căn cứ vào Bảng giá đất của địa phương và hệ số điều chỉnh giá đất để xác định giá trị; giá trị tài sản khác được xác định căn cứ vào giá trị còn lại của tài sản trên sổ kế toán. Trường hợp tài sản chưa được theo dõi trên sổ sách kế toán hoặc đã tính hao mòn đủ nhưng vẫn còn sử dụng được thì thành lập hội đồng xác định lại giá trị tài sản. Việc xác định giá trị tài sản sẽ do đơn vị sự nghiệp công lập tự tổ chức thực hiện. Với quy định này, thời gian và chi phí xác định giá trị tài sản sẽ giảm bớt khoảng 70% so với trước đây.
Ba là, quy định cụ thể quy trình giao TSNN cho đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, thời hạn thực hiện và trách nhiệm thực hiện từng bước công việc. Theo đó, quy trình bao gồm 4 bước: Bước 1, Kiểm kê, phân loại tài sản; Bước 2, Xác định giá trị tài sản; Bước 3, Quyết định giao tài sản cho đơn vị; Bước 4, Tổ chức giao tài sản cho đơn vị. Bước 1, bước 2 do thủ trưởng đơn vị tổ chức thực hiện và phải hoàn thành trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày có văn bản thông báo đơn vị đủ điều kiện được Nhà nước xác định giá trị TSNN để giao cho đơn vị quản lý của bộ, cơ quan trung ương hoặc UBND cấp tỉnh. Bước 3 do đơn vị trình, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan trung ương, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện quyết định trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ của đơn vị. Bước 4, bộ, cơ quan trung ương, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện là bên giao, thủ trưởng đơn vị sự nghiệp công lập là bên nhận thực hiện việc giao tài sản cho đơn vị sự nghiệp công lập quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định giao tài sản. Với quy định nêu trên, quy trình thực hiện sẽ rút ngắn được trên 50% thời gian so với thời gian các đơn vị trước đây đã thực hiện.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng, khai thác tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Theo đó, Nghị định số 04/2016/NĐ-CP và Thông tư số 23/2016/TT-BTC quy định các thông tin liên quan đến việc công nhận đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý, đưa TSNN sử dụng vào mục đích kinh doanh và kết quả thực hiện phải được cập nhật vào cơ sở dữ liệu để theo dõi, quản lý, kiểm soát và công khai theo quy định của pháp luật. Chính phủ giao Bộ Tài chính chịu trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý và sử dụng tài sản tại các đơn vị sự nghiệp công lập. Bộ Tài chính cũng đã có văn bản đề nghị các bộ, cơ quan Trung ương, UBND cấp tỉnh chỉ đạo các đơn vị sự nghiệp công lập không đủ điều kiện được nhà nước xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp chấm dứt ngay việc sử dụng tài sản nhà nước vào mục đích sản xuất, kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết; xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp sử dụng tài sản không đúng mục đích được giao.
Các “nút thắt” đã được gỡ bỏ nhưng để chính sách đi vào thực tế, nâng cao được nguồn lực tài chính từ tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập thì rất cần sự quan tâm, vào cuộc của thủ trưởng các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là từ ngay các đơn vị sự nghiệp công lập đang quản lý, sử dụng tài sản.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 5/2016